Việt nam trong hồ

Thuyền Việt Nam ở Bianhe. Ảnh: Nhân Dân.

Sống trên chiếc thuyền nhỏ trên sông ở Campuchia, nhiều trẻ em Việt Nam không bao giờ được đến trường.

Một ngôi nhà lớn trên bè bên bờ sông ở tỉnh Kampong Cham, Campuchia là nơi sinh sống của cộng đồng người Việt. Có hai hàng ghế với người lớn ở một bên và trẻ em ở bên kia, tràn ngập thế giới. Một cô bé nói tiếng Việt rất tốt. “Trời chưa sáng, mẹ giục hai đứa dậy để mẹ đi xuồng xếp hàng nhận quà. Hôm nay có đoàn từ thiện Việt Nam về. Mẹ nói:”

Bé gái tên là Lê Thị Tiểu Yến, còn bé trai là Lê NaDo. TieuYen 11 tuổi và Na Do 8 tuổi. Dù có thể nói tiếng Việt thành thạo nhưng Tiểu Yến không biết quê hương của cô là ở Việt Nam.

Từ khi sinh ra, chỉ có hai người đi trên bè và xuồng lênh đênh, họ chưa từng đặt chân đến chợ xóm, cũng chưa từng đi theo cô. Yan Zong Ti đã học tiếng Việt ba năm. , Còn Na Do mới học nên không hiểu tiếng Việt. “Bố làm nghề hớt tóc, mẹ bán chè, mẹ bơi xuồng đi bán, đầu để trần, không mặc áo, chỉ có quần đùi, trông như khối than đi lại. Vì Cô ấy chưa đi học nên chưa có giấy tờ tùy thân, bị một cô gái đến từ Việt Nam gài vào cột nhà, tròn mắt nhìn ai cũng “Nhà em xa lắm! Cha mẹ làm nghề net. “Em chưa đi học”, Henen tươi cười hỏi cô có muốn để răng trắng khi đến trường không. Sau khi nghe thấy tiếng Việt, tôi quay lại và thấy một người đàn ông đang cố gắng đẩy cậu bé về phía trước. Tôi đã hiểu ý của một người đàn ông khác khi đẩy cậu bé vào hàng ngũ để nhận một món quà, nhưng cô ấy đã phải vật lộn với nó vì cô ấy không có phiếu bầu của chính phủ. Tôi tên là Nguyễn Văn Hoàng, trong gia đình có 4 anh em, tôi sống với mẹ. Cách đây vài tháng, bố bị đột quỵ về Việt Nam điều trị. “Gia đình tôi làm nghề đánh cá, ngày nào cũng mua nhiều thứ, dư thì ngày nào cũng mua.” Nếu kiếm được tiền, chúng tôi phải dành dụm gửi cháu về Việt Nam điều trị. Cha bị ốm. “Nhiều người Việt Nam sinh sống và làm ăn ở Biển Hà. Mọi người đều vui mừng khi có hai trường học trên địa bàn vừa khai giảng và sẵn sàng đón học sinh vào năm học mới, trong đó có một trường công lập ở địa phương. Báo sẽ tổ chức dạy tiếng Việt. Ngôi trường mới nằm trong hai nhà bè lớn neo đậu trong nhà sinh hoạt cộng đồng, trường được xây dựng bằng cây xanh, ván gỗ đẹp, trang bị đầy đủ bàn, bảng đen và các vật dụng cần thiết, mỗi trường có ba phòng, gồm Hai phòng học và một phòng giáo viên.

Ở Campuchia vẫn còn thiếu trường dạy chữ nên chính phủ gặp khó khăn trong việc tổ chức dạy chữ viết tiếng Việt, nhưng cộng đồng người Việt ở đây đông, đa số người già không biết chữ nên họ vẫn mong muốn có trường học và Cô giáo để con em được đi học, biết tiếng mẹ đẻ, nhớ quê hương cội nguồn, có bạn giàu có, gia đình khá giả thì tổ chức dạy tiếng Việt, rồi vận động các nhà hảo tâm gửi sách, sách hướng dẫn, Và tôi đã tìm được những lời hay của người Việt để dạy cho các em, vì nhiều lý do khác nhau đã tạo ra một số lớp học nhưng không giữ được như cũ, mùa lũ nước sông mênh mông, thuận theo tự nhiên, chiếc bè phải lênh đênh trên mặt nước để mưu sinh. Làng sập, lũ vô tình phá tan lớp học của các em, các em mơ ước được học

“Cách đó không xa là lớp học của Thắm. Sau khi thành lập làng, cô tổ chức nói tiếng Việt cho các em nhỏ trong nhà. Có khi học sinh đông đến, nước ngập đến chân. Nhưng bọn trẻ rất vui khi được học! Cô Thắm cũng rất vui vì ở đó có nhiều học sinh ”- ông Lê Văn Lợi, người xây lớp học cho biết – – Ông Lợi bắt đầu kể cho gia đình nghe về giải pháp thực sự. Năm 1975, hai vợ chồng trẻ gom góp được vài tài sản. , Xuôi theo con thuyền nhỏ dọc sông Cửu Long, thấy sự kỳ vĩ của bờ sông, lòng khao khát muốn khóc, sáng thì thả câu, chiều đánh bắt, đêm tối, nhưng cuộc đời của nốt nhạc cho rằng hạnh phúc trong tự do chẳng được bao lâu. Gia đình tôi và một số người Việt Nam khác phải vội vã trở về Việt Nam vì bị quân Pol Pot truy lùng, anh Lợi đưa vợ và ba con về Việt Nam làm lụng kiếm tiền, hoàn cảnh ở Campuchia năm 1980 rất khó khăn. suy thoái.Cô lại tìm đến Bianhe để kiếm sống. Trở lại với nghề cũ, nhưng cuộc sống ngày càng khó khăn, bởi cá ngày càng khan hiếm, và ngày càng nhiều người theo nghề này. Anh dùng nghề mộc thủ công và chuyển sang đóng ca nô, tủ, bàn ghế và một gia đình bạn bè cho những người mới đến. “Cuộc sống bây giờ dễ thở hơn, không ai bị bắt bớ. Tôi từng làm phễu lưới. Lưới rách rồi dừng lại nên trắng tay! Cùng cảnh với anh Lý, quê ở Sông Bê trước đây” Bà Nguyễn Thị Hoa 52 tuổi, quê ở Biên Hòa cũng đã gần 30 năm, bà Hoa và ông Lợi nối nhau nhưng cuộc sống khó khăn hơn nhiều, bà Hoa sinh trên đò 12 lần nhưng chỉ nuôi được 7 con. Con, trước đây, vợ chồng chị phụ thuộc vào nghề chài lưới, nhưng ông bà ngày càng già yếu, ông thường xuyên đau ốm, chị bán gạo nếp thay bắp, do không có điều kiện nên tôi ít về Việt Nam. “Từ năm 1980 đến nay, tôi mới đến Việt Nam một lần. Tôi nhớ quê, nhớ bà con nhưng không có tiền về quê. Hoa buồn bã nói. Người Việt Nam xa xứ làm ăn. Riêng xã Chhok Tru có khoảng 1.000 gia đình với hơn 4.500 nhân khẩu. Song Zhi, Chủ tịch Hiệp hội Người Việt Nam Campuchia cho biết: “Hầu hết người Việt Nam sống ở Biển Hồ đều nghèo. Cuộc sống của họ chủ yếu là đánh bắt cá và buôn bán ở thị trường nội địa.

(Theo Nandan)

Leave A Reply