Khi tác giả (phải) làm việc trong một xưởng đóng tàu ở Đông Đức (phía trước) vào cuối những năm 1980, ông để kiểu tóc, quần áo và giày dép là mốt của hợp tác xã lúc bấy giờ. Ảnh do tác giả cung cấp.
Năm 1988, hơn 150 thanh niên từ ba tỉnh Jianjiang, Minghai và Cologne (trước đây) đã đến sân bay Tân Sơn Nhất ở Đức. Ngày đi, hành lý của họ chỉ là vài bộ quần áo mới, thậm chí có người còn đi dép bệt trên máy bay. Sau đây là một câu chuyện, đó là thanh niên Duy Triều lúc bấy giờ, là một trong 150 thanh niên.
Sau 15 giờ bay, chúng tôi đến được Berlin, thiên đường của một nước xã hội chủ nghĩa. Ngày hôm đó. Mặc dù Châu Âu vẫn đang vào mùa hè, nhưng Berlin rất lạnh đối với người Việt mới trong thời gian này. Nhiệt độ là 16 độ C vào ban ngày và dưới 10 độ C vào ban đêm. Sau khi rời khỏi sân bay Berlin, chúng tôi được đưa đến tỉnh Wismar, cách Berlin hơn 200 km.
Đường xấu quá, bốn tiếng sau chúng tôi đến khu tập kết của công nhân Việt Nam. Thời đó nhà ở Đông Đức còn đông đúc lắm, tuy không khang trang như bây giờ nhưng đối với chúng tôi là những dãy chung cư cao tầng được xây dựng cẩn thận sơn màu đỏ tươi, xung quanh là hàng rào xanh. Thiên đường gần đến rồi.
Chúng tôi có sáu thành viên trong nhóm trong một căn hộ rộng 50 mét vuông. Đối với mỗi người Việt Nam mới bước qua thời gian này, nhiệm vụ đầu tiên của chúng ta là mua quần áo. Tiền mua quần áo do xưởng chúng tôi thanh toán. Lúc đó, cuộc sống ở Đông Đức do nhà nước tài trợ nên không khác nhiều so với Việt Nam.
Cửa hàng này có rất ít sản phẩm, thậm chí một số cửa hàng chỉ có một số mặt hàng tượng trưng, chẳng hạn như “được bán tại Việt Nam trong thời gian tài trợ.” Nếu may mắn tìm được một cửa hàng có nhiều quần áo, giới trẻ Việt Nam sẽ khó mua được quần áo, vì quần áo cũ ở Đông Đức chỉ là đồ đại trà của người Đức. Những đôi giày là ok, bởi vì quần áo như giày lớn. Bi kịch là nếu bạn không mua được giày thì bạn sẽ bất lực vì thời tiết ở Đức quá lạnh. Tuy nhiên, nhiều bạn trẻ Việt khi bước vào cửa hàng giày đã tỏ ra thất vọng vì không tìm được size ưng ý khi xếp hàng từ sáng sớm.
Chúng tôi được phép đi học và làm việc trong xưởng đóng tàu. Nó được gọi là Mathias-thysen-Werft ở Wismar. Nhóm chúng tôi có nhiều nghề khác nhau, đa số là thợ hàn, thợ nguội và thợ sơn. Tôi được cử đi làm họa sĩ. Công việc rất vất vả. Mùa đông khắc nghiệt, nhiệt độ xuống dưới âm 20 độ C nhưng đến 4 giờ sáng, mọi người đều phải thức dậy để chuẩn bị cho thời khắc chuyển mùa này.
Trong cái lạnh tê tái da tay chân nhưng những người lao động Việt Nam vẫn chăm chỉ như những chú ong thợ, mong kiếm thật nhiều tiền để gửi về quê hương. Vào thời điểm đó, giá thành tàu ở Đông Đức rất thấp nên các đơn đặt hàng của các công ty ở các nước tư bản rất háo hức đưa vào sử dụng. Dù công việc rất nặng nhọc nhưng nhờ có quý nhân giúp đỡ nên tôi có thể làm việc bảy ngày trong tuần mà không bao giờ than phiền. Đêm đông lạnh cắt da cắt thịt, tôi lao cầu vì nhớ người thân, quê hương, nước mắt lưng tròng. Trong nhóm chúng tôi, có một số công nhân lớn tuổi, là bộ đội, giáo viên đã có gia đình, sống ngơ ngác không xa vợ con, nhiều người đàn ông suốt ngày như những đứa trẻ hoang mang. Bước đi với vẻ mặt bối rối như một con gà. mẹ. Vào thời điểm đó, cách duy nhất để liên lạc với các thành viên trong gia đình là qua đường bưu điện. Ngày nào cũng có người viết thư cho vợ nhưng lòng vẫn nhớ nhà. thời gian trôi. Sau hơn ba tháng thực tập nghề nghiệp, tôi và nhiều đồng nghiệp đã được nhận vào làm “ăn theo sản phẩm”. Khi tôi nhận được 1.139 D-Mark (GDR), tháng lương đầu tiên đã bị lung lay. Tôi dự định để dành số tiền này để sau khi tan ca sẽ mang về Việt Nam. Tuy nhiên, các thành viên trong nhóm của tôi với kinh nghiệm trực tiếp đề nghị tôi nên sử dụng tiền để mua hàng. Về Việt Nam sẽ có lợi hơn. Tôi nghe lời và nhanh chóng mua 10 chiếc bàn là và 5 lon ca cao, rồi tự hào ra bưu điện gửi cho gia đình (tiếc là sau này gia đình đã bán chúng với giá rất ít). ).
Đến tháng lương thứ hai, tôi xếp hàng trong giá lạnh lúc bốn giờ sáng, mua chiếc xe đạp kim cương nổi tiếng thời Đông Đức, tặng em trai tôi đi học. Nhưng cửa hàng này không có đủ xe để đáp ứng những người Việt Nam xếp hàng dài từ nửa đêm. May mắn thay, ngay cả khi tôi cần mua chiếc xe đạp này với giá đầy đủỒ, anh bạn.
Cuộc sống cứ thế trôi qua. Khi đã bắt kịp cuộc sống mới ở Đức, nhiều người trong chúng tôi đã chọn một con đường khác. Một số người bỏ nghề làm ăn (lúc đó chủ yếu mua đồ xa xỉ rồi bán lại như quần bò, nước hoa Chanel, đồng hồ điện tử, đầu máy video …) gia đình, vợ con nên nhiều người bị nghi ngờ nghiện rượu, cờ bạc. Lúc đó ở Đức, bia, thịt và bánh mì rất rẻ nên họ có thể ăn nhiều hơn. Mỗi cuối tuần, người lao động Việt Nam tiếp tục tụ tập kiếm ăn. Cũng có nhiều thanh niên đến vay tiền để sống giữa tháng vì tất cả số tiền kiếm được đều vào sòng bài. …
* Còn tiếp
(Theo giới trẻ)